Thị trường Trung Đông rất ưa chuộng mặt hàng cá tra Việt Nam xuất khẩu đạt tiêu chuẩn Halal - Ảnh: THẢO THƯƠNG
Mở rộng thêm nhà máy, đa dạng sản phẩm nâng cao chất lượng, đầu tư công nghệ chế biến sâu để "chiều" người tiêu dùng... là cách mà các doanh nghiệp Việt đang thực hiện nhằm mở đường vào thị trường Halal, với những yêu cầu nghiêm ngặt theo luật Hồi giáo.
Theo báo cáo kinh tế Hồi giáo toàn cầu, chi tiêu thực phẩm Halal ước đạt 7.700 tỉ USD vào năm 2025 và dự kiến tăng lên 10.000 tỉ USD vào năm 2028. Trong khi đó, dân số Hồi giáo đang chiếm khoảng 24% dân số thế giới và có thể sẽ tăng thêm 3% vào năm 2050.
Thị trường Halal mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt nhưng cũng kèm theo không ít thách thức. Xuất phát từ quy định khắt khe của tiêu chuẩn Halal đối với sản phẩm có nguồn gốc từ động vật, các sản phẩm Halal xuất khẩu của VN chủ yếu là nông sản.
Nông sản chế biến của Việt Nam được ưa chuộng
Có mô hình khép kín từ sản xuất thức ăn chăn nuôi đến nuôi gia cầm và cho ra sản phẩm cuối cùng là trứng, thịt gà và các sản phẩm chế biến liên quan, bà Phạm Thị Huân - chủ tịch HĐQT Công ty CP Ba Huân - cho biết các sản phẩm của doanh nghiệp này đã có mặt trên thị trường từ nhiều năm nay nhưng chỉ mới có trứng gà đón "làn gió mới" vì gắn tiêu chuẩn Halal.
"Sản phẩm trứng gà Ba Huân có mặt ở 5 quốc gia và vùng lãnh thổ gồm: Mỹ, Hong Kong, Singapore, Nhật Bản, Malaysia. Ngoài trang trại ở tỉnh Bình Dương, chúng tôi đang xây thêm trang trại ở Bến Lức (tỉnh Long An), nâng tổng sản lượng lên 2 triệu trứng/ngày nhằm cung ứng cho thị trường các nước Hồi giáo. Chúng tôi đã có giấy chứng nhận chuẩn Halal, chỉ cần chờ thị trường mở mã, trứng gà Việt Nam sẽ lên bàn ăn thị trường này", bà Huân nói.
Trong khi đó, hơn 10 năm làm sản phẩm nha đam và thạch dừa xuất khẩu vào thị trường Trung Đông theo tiêu chuẩn Halal, ông Nguyễn Văn Thứ - giám đốc Công ty GC Food - cho rằng cơ hội ở thị trường này rất lớn. Trong 10 năm, tệp khách hàng của GC Food ở phân khúc sản phẩm chuẩn Halal tăng lên dần. Sản lượng đơn hàng cũng nhiều lên. Bán được đối tác này sẽ dẫn dắt thêm đối tác khác.
"Quan trọng là quy trình sản xuất của mình phải chuẩn và đảm bảo. Không chỉ riêng thị trường Trung Đông, dòng sản phẩm tiêu chuẩn Halal được quan niệm tốt cho sức khỏe, nên nông sản chế biến của Việt Nam hay GC Food nói riêng cũng đang có "thế" ở Philippines, Malaysia...", ông Thứ thông tin.
Các quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới như Indonesia, Malaysia, khu vực Nam Á, Pakistan, Bangladesh... đang có nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam với số lượng lớn. Vì thế, một doanh nghiệp xuất khẩu hạt điều chế biến ở tỉnh Đồng Nai vừa đầu tư một dàn công nghệ máy móc từ Nhật Bản, để nâng chất lượng của hạt điều vào thị trường Halal.
"Hạt điều Việt Nam chế biến nếu đúng chuẩn rất thơm, ngon, vị "rất Halal", nên khách nước ngoài tăng đơn hàng. Có nguyên liệu thô nhưng công nghệ "xịn", hàng sẽ được nâng hạng. Dự kiến tháng 1-2025, toàn bộ máy móc mà chúng tôi đặt trước 3 tháng sẽ có mặt ở nhà máy. Có hàng chuẩn sản phẩm Halal, khi đó chúng tôi sẽ mạnh dạn ký hợp đồng lớn và giao xa", chủ doanh nghiệp này cho biết.
Các quốc gia Hồi giáo đông dân như Indonesia, Malaysia, Pakistan, Bangladesh... đang có nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng nông sản Việt vì đạt tiêu chuẩn Halal, trong đó có cà phê - Ảnh: B.T.M.
Chuẩn Halal lâu dài vẫn phải là chất lượng
Do chưa có quy định chung về chứng nhận Halal, mà mỗi thị trường có một số yêu cầu riêng. Vì thế, theo các doanh nghiệp xuất khẩu, điều quan trọng là đầu tư chất lượng sản phẩm. Theo ông Thứ, có rất nhiều doanh nghiệp tìm được cơ hội từ thị trường Halal, nhưng lại "bị nhầm" vì nghĩ có tấm "hộ chiếu" Halal là thắng lớn ở thị trường này.
"Đạt tiêu chuẩn Halal chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ vẫn là chất lượng sản phẩm. Một miếng bánh to, với nhiều doanh nghiệp trên toàn thế giới nhắm đến, tức là lúc nào cũng cạnh tranh lớn. Ngoài giá cả hợp lý, chúng ta chỉ thắng lớn khi hàng Việt có chất lượng cao. Mỗi năm nâng chất lên để sản phẩm chiếm trọn sở thích người tiêu dùng ở thị trường này mới bền vững", ông Thứ phân tích.
Quy trình sản xuất bài bản, hệ thống đầu vào của nguyên liệu, quy trình canh tác và cả những tiêu chuẩn về giống của sản phẩm trồng trọt... cũng phải đảm bảo, để hoàn thiện một chứng nhận Halal bền vững. Theo đại diện một doanh nghiệp chuyên xuất khẩu cá tra, Việt Nam chưa có bộ tiêu chuẩn Halal thống nhất để áp dụng cho tất cả các nước, mà nhiều cơ quan, tổ chức tham gia vào quy trình chứng nhận với những thủ tục khác nhau.
"Nông sản thực phẩm của Việt Nam đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với chứng nhận Halal, ví dụ như chứng nhận VietGAP, GobalGAP, chứng nhận hữu cơ, HACCP, ISO... và được người Hồi giáo ưa chuộng. Chưa kể nông sản Việt có thể chinh phục thị trường hàng ngàn tỉ USD nhờ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng với các nước từ Hiệp định thương mại tự do (FTA)... Nhưng nhìn lại, bộ tiêu chuẩn Halal thống nhất chưa có, nó là rào cản lớn đối với các sản phẩm muốn thâm nhập thị trường này", vị này nói.
Theo một lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các nước Trung Đông có nhu cầu nhập khẩu thực phẩm lên tới 80%, tương đương 40 tỉ USD mỗi năm. Đặc biệt, nhu cầu nhập khẩu thực phẩm, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của thị trường này lại tương đồng với thế mạnh của Việt Nam. Chưa kể, mức thuế nhập khẩu rất thấp, chỉ từ 0 - 5%, tạo cơ hội lớn cho doanh nghiệp.
"Cơ hội là rất nhiều nhưng vẫn có nhiều thách thức mà các doanh nghiệp phải đối diện khi xuất khẩu. Vấn đề quan trọng là vẫn phải xây dựng chiến lược thâm nhập thị trường một cách bài bản. Từ đó làm nền tảng cho việc sản xuất sản phẩm xuất khẩu có chất lượng, quy cách, mẫu mã phù hợp...", vị này nhấn mạnh.
Thị trường Trung Đông tăng nhập hàng thủy sản Việt Nam
Nha đam chế biến theo tiêu chuẩn Halal để xuất khẩu vào thị trường Trung Đông của Công ty GC Food - Ảnh: V.A.MINH
Theo ông Trương Đình Hòe - tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), nhờ có sự quan tâm hỗ trợ của Chính phủ, lãnh đạo ban ngành liên quan, hàng thủy sản VN đã được nhiều thị trường Trung Đông biết đến và nhập khẩu ngày càng nhiều.
"Chất lượng sản phẩm thủy sản xuất khẩu cũng ngày càng được nâng cao do phải tuân thủ quy chuẩn nghiêm ngặt. Trong đó, cá ngừ và cá tra là hai mặt hàng chiếm tỉ trọng ở Trung Đông, dự báo sẽ có doanh số lớn trong thời gian tới. Cơ hội lớn nên ở đâu có Halal, ở đó có... doanh nghiệp của ta", ông Hòe nói.
Cũng theo ông Hòe, 11 tháng năm 2024, khu vực Trung Đông đã nổi lên như một thị trường tiềm năng xuất khẩu thủy sản (với mức tăng trưởng 18%) chiếm gần 4% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước. Thị trường này lần đầu nằm trong top 2 thị trường nhập khẩu thủy sản có tăng trưởng mạnh nhất (sau Trung Quốc) nhờ "đánh" mạnh vào sản phẩm tiêu chuẩn Halal.
"Người tiêu dùng Trung Đông (Israel, Saudi Arabia, UAE và Qatar) chuộng cá ngừ đóng hộp, cá tra phi lê, cắt khúc và cá nguyên con đông lạnh... chuẩn Halal. Thực tế, các doanh nghiệp Việt đã xuất khẩu khoảng 70% cá ngừ đóng hộp sang Israel (quốc gia nhập khẩu thủy sản lớn nhất trong khu vực). Riêng cá tra gắn với tiêu chuẩn Halal ở thị trường UAE tăng đến 28%", ông Hòe thông tin.
Doanh nghiệp lo chuỗi cung ứng bị đứt gãy
Dù khẳng định tiềm năng lớn của thị trường Halal, không chỉ cá ngừ, cá tra mà còn có thể mở rộng một số loại cá nước ngọt khác, ông Phạm Quang Thuận, đại diện một doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản ở TP Nha Trang, cho rằng khi đưa hàng vào thị trường Halal, doanh nghiệp sẽ phải nâng cao chất lượng sản phẩm, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Tuy nhiên theo ông Thuận, thách thức lớn nhất khi khai thác thị trường này là những biến động chính trị và xung đột trong khu vực Trung Đông chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt, làm đứt gãy chuỗi cung ứng. "Doanh nghiệp rất sợ rủi ro này nên ngoài cơ hội lớn, mỗi doanh nghiệp phải tính toán xây dựng giải pháp riêng cho mình, để tránh "vỡ trận" nếu chẳng may gặp rủi ro", ông Thuận nói.
Các nước đẩy mạnh khai thác thị trường Halal
Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Việt Nam đang có gần 1.000 doanh nghiệp được chứng nhận Halal. Tuy nhiên VN vẫn chưa hình thành được các hệ sinh thái Halal trong khi những quốc gia cung cấp lớn, nhiều kinh nghiệm lại đang chiếm lĩnh thị phần lớn như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Brazil...
Xuất hiện năm 1994, ngành công nghiệp Halal của Hàn Quốc vượt qua khó khăn, sản xuất nhiều sản phẩm có chứng nhận Halal từ mì ăn liền đến kim chi, thực phẩm chức năng, dầu gội đầu và mở rộng ra cả ngành logistics, dịch vụ lưu trú...
Giải pháp mà Hàn Quốc đặt ra là học hỏi kinh nghiệm và hợp tác với các quốc gia Hồi giáo chiếm đa số; thành lập Viện nghiên cứu ngành công nghiệp Halal (KIHI) nhằm nghiên cứu chuyên sâu, đào tạo và cố vấn cho các doanh nghiệp trong ngành Halal Hàn Quốc.
Trong khi đó, dù có tỉ trọng nông nghiệp rất thấp trong GDP, chỉ mới tự chủ được khoảng 10% nhu cầu thực phẩm, 90% còn lại là nhập khẩu nhưng thực phẩm chế biến là một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn của Singapore, với kim ngạch xuất khẩu khoảng 9 tỉ USD/năm. Trong đó, tới 70% giá trị xuất khẩu với khoảng 50.000 mặt hàng là các mặt hàng có chứng nhận Halal.
Theo các doanh nghiệp, nguyên nhân là Singapore có hệ thống chứng nhận Halal rất tốt, được thừa nhận bởi các quốc gia Hồi giáo; có hệ thống hạ tầng logistics và thương mại quốc tế; hệ thống phân phối sản phẩm Halal được phân bổ rộng tại nhiều chuỗi siêu thị và cửa hàng lớn...