Văn hóa là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc, là sợi dây liên kết quá khứ, hiện tại và tương lai, đồng thời là sức mạnh nội sinh để đất nước vươn tới những giá trị bền vững. Với 54 dân tộc anh em, Việt Nam tự hào sở hữu một "bức tranh văn hóa" phong phú, đa dạng nhưng vẫn thống nhất thành một thể.
Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước và Nhân dân ta đã không ngừng nỗ lực thông qua các chủ trương, chính sách và hành động cụ thể bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ ngày 14 đến 17/12/2024, Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2024 sẽ được tổ chức tại tỉnh Quảng Trị, nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam; đồng thời tạo điều kiện để các địa phương giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trong việc bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuần "Đại đoàn kết các dân tộc - di sản văn hoá Việt Nam" 2024. Ảnh: Làng VHDLCDTVN
Sự đặc sắc và đa dạng của văn hóa các dân tộc thiểu số
Mỗi dân tộc Việt Nam đều mang những bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên bức tranh văn hóa thống nhất của cả dân tộc. Sự đa dạng trong văn hóa của các dân tộc thể hiện trên tất cả các khía cạnh, từ ngôn ngữ, trang phục, lễ hội, nghi thức truyền thống đến các loại hình nghệ thuật dân gian.
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố cốt lỗi thể hiện tính đa dạng văn hóa của các dân tộc Việt Nam. Hiện nay, 27/53 dân tộc thiểu số có chữ viết riêng, như Tày, Thái, Hoa, Khmer, Nùng, Mông, Gia-rai, Ê-đê, Ba-na... Những ngôn ngữ này được sử dụng trong sáng tác văn học, trên đài phát thanh, truyền hình và các trường học vùng dân tộc.
Bên cạnh ngôn ngữ, trang phục truyền thống là nét đặc trưng riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trang phục truyền thống của các dân tộc không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật và lịch sử. Thông qua trang phục truyền thống, các dân tộc không chỉ thể hiện được "gu" thẩm mỹ mà còn phản ánh được tín ngưỡng, tôn giáo, nhân sinh quan, thế giới quan, thậm chí là cả cội nguồn hình thành, phát triển của dân tộc mình. Có thể nói, mỗi trang phục là một tác phẩm tổng hòa các yếu tố tạo hình, kỹ thuật thủ công, màu sắc và tri thức dân gian, chứa đựng nhiều câu chuyện về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, là kết tinh tinh hoa văn hóa của dân tộc đó.
Phong tục tập quán của các dân tộc cũng là kho tàng văn hóa đồ sộ, thể hiện sự đa dạng trong đời sống sinh hoạt. Người Dao với nghi lễ cấp sắc - nghi thức quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của một người đàn ông, hay tục cưới hỏi độc đáo của người H'mông, đã tạo nên một bức tranh phong tục đầy màu sắc… Những phong tục này không chỉ phản ánh tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng mà còn là cách các dân tộc trao truyền các giá trị văn hóa qua nhiều thế hệ.
Các lễ hội truyền thống là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của các dân tộc Việt Nam, phản ánh tinh thần cộng đồng, tôn giáo, tín ngưỡng và những giá trị nhân văn sâu sắc. Mỗi dân tộc đều có những lễ hội mang màu sắc đặc trưng riêng, không chỉ là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa mà còn là dịp gắn kết cộng đồng, củng cố tình đoàn kết giữa các thành viên trong làng, bản. Những lễ hội nổi bật, như: lễ hội Cồng Chiêng của người Tây Nguyên, lễ hội Gầu Tào của người Mông, lễ hội Lồng Tồng (Xuống đồng) của người Tày, Nùng hay lễ hội Ok Om Bok của đồng bào Khmer… đều mang ý nghĩa cầu cho sức khỏe dồi dào, mùa màng bội thu... Trong mỗi dịp lễ hội, các nghi thức truyền thống được tái hiện đầy đủ và sống động, từ trang phục, âm nhạc đến các hoạt động biểu diễn nghệ thuật như múa, hát dân gian.
Mặc dù mang những nét đặc trưng riêng, văn hóa các dân tộc Việt Nam vẫn thể hiện rõ sự thống nhất trong nền tảng văn hóa dân tộc. Tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường và lòng nhân ái là những giá trị cốt lõi kết nối 54 dân tộc anh em. Các giá trị này đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử và ngày nay tiếp tục được thể hiện trong đời sống hàng ngày, qua những phong tục tập quán giản dị nhưng đầy ý nghĩa.
Văn hóa không chỉ là tài sản tinh thần mà còn là nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch. Các sản phẩm du lịch văn hóa như tham quan làng bản, trải nghiệm lễ hội, khám phá nghề thủ công truyền thống đã góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và tạo sinh kế cho cộng đồng địa phương. Mô hình du lịch cộng đồng ở các bản làng người Thái, Dao hay Mông… là minh chứng cho sự gắn kết giữa bảo tồn văn hóa và phát triển kinh tế bền vững.
Nhiều giá trị văn hóa của các dân tộc, như: Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên; Nghi lễ và trò chơi Kéo co; Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái; Nghệ thuật Xèo Thái và Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, minh chứng cho giá trị độc đáo của văn hóa các dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
Nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số
Văn hóa các dân tộc Việt Nam không chỉ là nguồn di sản quý báu mà còn là sức mạnh nội sinh quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhận thức rõ điều này, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc.
Từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đến Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (2014) và Văn kiện Đại hội XIII (2021), Đảng ta luôn khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Những văn kiện này đều nhấn mạnh nhiệm vụ bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, lễ hội và trang phục truyền thống.
Lễ hội A riêu ping của đồng bào dân tộc Pa Kô ở tỉnh Quảng Trị được đánh giá là độc đáo. Ảnh: Vân Phong/dangcongsan.vn
Thể chế hóa các chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, như: Quyết định số 1270/QĐ-TTg (2011) về bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số đến năm 2020, Quyết định số 936/QĐ-TTg (2017) phê duyệt chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016-2020 và Quyết định số 1909/QĐ-TTg (2021) phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa giai đoạn 2021-2030. Những chính sách này tập trung vào bảo tồn di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, thúc đẩy nghiên cứu, lưu giữ và quảng bá các giá trị văn hóa dân tộc.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức định kỳ "Ngày hội giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng đồng bào các dân tộc thiểu số" theo khu vực và toàn quốc giai đoạn 2013-2020"; thực hiện Dự án "Chương trình hoạt động, lễ hội và biểu diễn văn hóa nghệ thuật các dân tộc cấp tỉnh, vùng và quốc gia giai đoạn 2015-2020"... Qua đó, đã có nhiều hoạt động giao lưu văn hóa được diễn ra trên phạm vi cả nước, từng vùng, từng địa phương, từng dân tộc, như: Giao lưu văn hóa các dân tộc tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam hằng năm; Ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc, miền Trung và miền Đông Nam Bộ, Ngày hội văn hóa dân tộc Mông, Chăm, Khmer, Mường, Dao, Hoa, Thái...; Liên hoan nghệ thuật hát then, đàn tính các dân tộc Tày, Nùng, Thái.... Ngoài ra, Bộ cũng đã phê duyệt Đề án "Bảo tồn trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" với mục tiêu khơi dậy lòng tự hào và ý thức bảo tồn, phát huy và sử dụng trang phục truyền thống.
Các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng được lập hồ sơ khoa học, xếp hạng cấp quốc gia và quốc gia đặc biệt. Việc UNESCO công nhận nhiều di sản văn hóa phi vật thể, như: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (2008); Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (2019); Nghệ thuật Xòe Thái (2022) và Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm (2024) cũng là thành quả của sự phối hợp giữa các cấp chính quyền và cộng đồng trong việc bảo tồn di sản văn hóa.
Hằng năm, Đảng và Nhà nước đều tổ chức gặp mặt những người có uy tín, già làng, trưởng bản, và nghệ nhân (những người đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số) và trao tặng Danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú cho những cá nhân có đóng góp xuất sắc trong việc gìn giữ di sản văn hóa, bao gồm nghệ thuật dân gian, tập quán, tín ngưỡng, tri thức, ngữ văn, tiếng nói, chữ viết và lễ hội truyền thống.
Những nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc cũng được triển khai mạnh mẽ tại các địa phương. Hiện nay, cả nước đã có 30 tỉnh triển khai với 700 trường học tiếng dân tộc thiểu số; phát hành 8 chương trình tiếng dân tộc (Chăm, Khmer, Gia-rai, Ba-na, Ê-đê, Mông, Mnông, Thái) và 6 bộ sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số (Chăm, Khmer, Gia-rai, Ba-na, Ê-đê, Mông). Nhiều địa phương đã khảo sát, thống kê, sưu tầm tiếng nói, chữ viết, thư tịch cổ của các dân tộc; biên soạn, xuất bản sách tiếng dân tộc thiểu số.
Nhiều địa phương đã khai thác các giá trị văn hóa, tạo nên những sản phẩm du lịch hấp dẫn. Một số mô hình phát triển du lịch đã hình thành và hoạt động khá hiệu quả, như: du lịch cộng đồng ở Bản Mển (Điện Biên), Bản Áng (Sơn La), bản Nậm Đăm (Hà Giang), bản Thẳm (Lai Châu)...; tuyến du lịch "Qua những miền di sản Việt Bắc"; "Con đường xanh Tây Nguyên"; "Không gian cồng chiêng Tây Nguyên"; "Du lịch cội nguồn", "Cội nguồn Tây Bắc", "Sắc màu vùng cao"; "Du lịch vòng cung Tây Bắc"... Việc triển khai chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch đã góp phần phục hồi, bảo tồn, phát huy nhiều giá trị văn hóa đặc trưng; đồng thời tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, qua đó thúc đẩy quá trình xóa đói, giảm nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Bên cạnh đó, các chương trình phục dựng lễ hội truyền thống và hỗ trợ nghệ nhân dân gian đã được triển khai rộng khắp, góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Những lễ hội truyền thống, với các nghi thức, phong tục đặc trưng, không chỉ thu hút sự tham gia của cộng đồng mà còn là dịp để giáo dục thế hệ trẻ về cội nguồn, lịch sử và những giá trị tinh thần quý báu. Việc hỗ trợ các nghệ nhân dân gian cũng được chú trọng, từ việc cấp kinh phí, tổ chức các lớp đào tạo, đến việc tạo điều kiện cho họ truyền dạy nghề cho thế hệ sau. Những hoạt động này không chỉ góp phần bảo tồn mà còn thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề truyền thống, bảo vệ sự đa dạng văn hóa của đất nước.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, việc bảo tồn văn hóa dân tộc vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Sự phát triển kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa và hội nhập quốc tế khiến nhiều giá trị văn hóa đứng trước nguy cơ mai một. Thiếu nguồn lực đầu tư, nhận thức chưa đầy đủ của một bộ phận dân cư và công tác quản lý còn bất cập là những rào cản lớn.
Để khắc phục các thách thức trên, theo các chuyên gia, cần tăng cường giáo dục nhận thức về giá trị văn hóa dân tộc, nhất là đối với thế hệ trẻ. Công tác số hóa di sản, xây dựng các mô hình bảo tồn gắn với phát triển du lịch bền vững cần được đẩy mạnh. Chính sách hỗ trợ nghệ nhân, phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản trong việc gìn giữ di sản cũng cần được triển khai đồng bộ hơn nữa.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà còn cần sự chung tay của toàn xã hội. Văn hóa là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là nền tảng vững chắc để Việt Nam bước vào tương lai. Việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc không chỉ góp phần khẳng định bản sắc quốc gia mà còn tạo động lực cho sự phát triển bền vững, vì một đất nước giàu đẹp, văn minh và đậm đà bản sắc dân tộc.