Ảnh minh họa
Giá dầu thấp nhất 1 tháng
Giá dầu giảm hơn 2 USD/thùng xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 6/2024, khi các nhà đầu tư chuyển trọng tâm sang lệnh ngừng bắn có thể xảy ra tại dải Gaza, cùng với đó là đồng USD tăng mạnh cũng gây áp lực giá.
Chốt phiên giao dịch ngày 19/7, dầu thô Brent giảm 2,48 USD tương đương 2,9% xuống 82,63 USD/thùng vầ dầu WTI giảm 2,69 USD tương đương 3,3% xuống 80,13 USD/thùng.
Chỉ số đồng USD tăng sau số liệu thị trường lao động và sản xuất tại Mỹ cao hơn so với dự kiến, đã gây áp lực đối với giá dầu, Phil Flynn, nhà phân tích thuộc Price Futures Group cho biết.
Ngoài ra, giá dầu giảm do tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong quý 2/2024 là 4,7% - thấp hơn so với dự kiến, dấy lên mối lo ngại về nhu cầu dầu.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng nhẹ
Giá khí tự nhiên tại Mỹ thay đổi nhẹ, do sản lượng trong tháng qua tăng và lượng khí đốt dư thừa trong kho dự trữ bù đắp dự báo thời tiết nắng nóng quay trở lại vào cuối tháng 7 và đầu tháng 8/2024.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn New York tăng 0,3 US cent tương đương 0,1% lên 2,128 USD/mmBTU. Tính chung cả tuần, giá khí tự nhiên giảm 9%, sau khi tăng ít hơn 1% trong tuần trước đó. Đây là tuần giảm thứ 5 liên tiếp trong 6 tuần, giảm tổng cộng khoảng 27%.
Giá vàng giảm mạnh, bạc, bạch kim và palađi đều giảm
Giá vàng giảm hơn 2%, do đồng USD tăng và hoạt động bán ra chốt lời sau khi giá vàng đạt mức cao kỷ lục vào đầu tuần này, được thúc đẩy bởi kỳ vọng ngày càng tăng về việc Mỹ cắt giảm lãi suất vào tháng 9/2024.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 1,9% xuống 2.399,27 USD/ounce. Giá vàng đạt mức cao kỷ lục 2.483,6 USD/ounce trong phiên ngày 17/7/2024. Vàng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn New York giảm 2,3% xuống 2.399,1 USD/ounce.
Đồng USD tăng khoảng 0,2% so với các đồng tiền chủ chốt, cùng với đó là lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ cũng tăng, gây áp lực đối với giá vàng.
Đồng thời, giá bạc giao ngay giảm 3,2% xuống 29,11 USD/ounce, bạch kim giảm 0,3% xuống 964,75 USD/ounce và palađi giảm 2,7% xuống 905,09 USD/ounce. Cả ba kim loại đều có tuần giảm.
Giá đồng, nhôm, chì và thiếc thấp nhất 3 tháng, nickel thấp nhất gần 5 tháng
Giá đồng giảm phiên thứ 5 liên tiếp xuống mức thấp nhất 3 tháng, do nền kinh tế Trung Quốc suy yếu và thiếu thông tin về các biện pháp kích thích.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,9% xuống 9.305 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 8/4/2024. Tính chung cả tuần, giá đồng giảm 5,8% - tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 8/2022.
Đồng thời, giá đồng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 2,1% xuống 76.580 CNY (10.537,32 USD)/tấn – thấp nhất kể từ ngày 11/4/2024.
Giá nhôm trên sàn London giảm 1,2% xuống 2.357 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 2/4/2024.
Giá nickel giảm 1,1% xuống 16.250 USD/tấn - thấp nhất gần 5 tháng.
Cả 2 kim loại nickel và nhôm chịu áp lực giảm bởi sản lượng tại các nước sản xuất hàng đầu - Indonesia và Trung Quốc - đều tăng.
Giá chì trên sàn London giảm 1,6% xuống 2.122 USD/tấn và giá thiếc giảm 2% xuống 30.980 USD/tấn. Cả hai kim loại đều chạm mức thấp nhất 3 tháng.
Giá quặng sắt giảm, thép cây tăng
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm và có tuần giảm, do thiếu biện pháp kích thích cụ thể từ nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc và nhu cầu thép mùa vụ suy yếu gây áp lực thị trường.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên giảm 0,19% xuống 804,5 CNY (110,72 USD)/tấn. Trong phiên có lúc chạm 792,5 CNY/tấn – thấp nhất kể từ ngày 26/6/2024.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore giảm 0,99% xuống 104,45 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt giảm 2,33% - tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 7/6/2024.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây, thép cuộn cán nóng và thép không gỉ mỗi loại đều tăng 0,1%, trong khi thép cuộn giảm 0,25%.
Giá cao su tại Nhật Bản có tuần giảm mạnh nhất 1 tháng
Giá cao su tại Nhật Bản tăng, trong bối cảnh đồng JPY suy yếu, song thị trường có tuần giảm mạnh nhất 1 tháng, do thiếu thông tin kích thích mới từ nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 1,8 JPY tương đương 0,57% xuống 319,0 JPY (2,02 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá cao su giảm 1,82% - tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 17/6/2024.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 80 CNY tương đương 0,55% lên 14.595 CNY (2.008,67 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá cao su giảm 0,85% - tuần giảm thứ 6 liên tiếp.
Giá cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore giảm 0,2% xuống 162,7 US cent/kg.
Giá cà phê diễn biến trái chiều
Giá cà phê arabia kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn ICE giảm 2,7 US cent tương đương 1,1% xuống 2,382 USD/lb, giảm từ mức cao kỷ lục 2,5 năm (2,553 USD/lb) trong tuần trước đó. Tính chung cả tuần, giá cà phê giảm 4,2%.
Trong khi đó, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London tăng 1,1% lên 4.530 USD/tấn, trong tuần trước đó giá cà phê đạt mức cao kỷ lục 4.681 USD/tấn.
Giá đường thô thấp nhất hơn 1 tháng
Giá đường thô trên sàn ICE giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng 6/2024, trong bối cảnh triển vọng cây trồng tại châu Á được cải thiện.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE giảm 0,28 US cent tương đương 1,5% xuống 18,66 US cent/lb, sau khi giảm xuống mức thấp nhất (18,55 US cent/lb) kể từ ngày 3/6/2024 trong đầu phiên giao dịch. Tính chung cả tuần, giá đường giảm 2,8%, sau khi giảm 4,6% trong tuần trước đó.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London giảm 0,8% xuống 541,2 USD/tấn.
Giá lúa mì tăng, ngô và đậu tương giảm
Giá lúa mì trên sàn Chicago tăng, do hoạt động mua bù thiếu và lo ngại thời tiết bất lợi tại các khu vực trồng trọng điểm của Mỹ và toàn cầu.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 7-1/2 US cent lên 5,42-3/4 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 1/4 US cent xuống 4,04-3/4 USD/bushel và giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 7 US cent xuống 10,36 USD/bushel.
Giá dầu cọ tăng phiên thứ 4 liên tiếp
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng phiên thứ 4 liên tiếp, trước ước tính xuất khẩu giai đoạn từ 1-20/7/2024 của nước sản xuất lớn thứ 2 thế giới tăng.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Bursa Malaysia tăng 23 ringgit tương đương 0,58% lên 3.958 ringgit (844,82 USD)/tấn. Tính chung cả tuần, giá dầu cọ tăng 1,15%, sau khi giảm 3,14% trong tuần trước đó.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 20/7