Suryo từng tin rằng mình là một học sinh sáng giá. Cậu là người đầu tiên trong gia đình học đại học và cũng là người đầu tiên trong làng trúng tuyển vào ngôi trường hàng đầu ở ngoại ô Jakarta, cách nhà ở Trung Java 350 km.
Thế nhưng, suy nghĩ ấy thay đổi khi cậu đặt chân đến trường đại học, nơi phải cạnh tranh với những sinh viên xuất sắc, những nhà vô địch Olympic Toán và những người đoạt nhiều giải thưởng lớn nhỏ khắp Indonesia. "Đột nhiên, tôi thấy mình là một sinh viên tầm thường", Suryo nói.
Gánh nặng xuất thân từ gia đình nghèo khiến Suryo thêm áp lực. Bố mẹ luôn giục cậu nhanh chóng tốt nghiệp, đạt điểm cao để có thể tìm được công việc tốt, giúp đỡ anh chị em trong gia đình.
Covid-19 ập đến khi Suryo bước vào học kỳ thứ hai. Tất cả lớp học trực tiếp phải tạm dừng. Lo sợ lệnh phong toả trên toàn quốc, gia đình Suryo yêu cầu cậu trở về làng. Nhưng ở quê, đường truyền Internet kém, gia đình lại không đủ tiền mua một chiếc máy tính, dù là loại đã qua sử dụng.
Như một hệ quả, Suryo thường xuyên phải bỏ các lớp online, bị tụt lại so với bạn bè. Cậu không có ai để thảo luận cùng sau giờ học, cũng chẳng có thư viện nào để mượn và đọc sách nhằm nắm bắt bài học tốt hơn. Điểm số của Suryo sụt giảm nghiêm trọng đến mức có nguy cơ mất học bổng.
Sợ bố mẹ, những người kỳ vọng vào cậu con trai đầu lòng, thất vọng, Suryo giấu kín chuyện này. "Tôi đã nghĩ đến việc bỏ học, thậm chí từng nghĩ từ bỏ cuộc sống. Nhìn thấy một cây cầu, tôi không ngừng nghĩ đến việc nhảy xuống. Nhìn thấy dòng sông, tôi chỉ nghĩ đến chuyện gieo mình", Suryo chia sẻ.
Những bức ảnh về con người giúp khơi gợi để sinh viên chia sẻ chứng trầm cảm của họ. Ảnh: CNA
Một nghiên cứu do nhóm vận động sức khỏe tâm thần Ruang Empati khởi xướng, công bố vào tháng 10, cho thấy 59% trong số 3.901 sinh viên đại học ở Indonesia được khảo sát có dấu hiệu lâm sàng của bệnh trầm cảm. Con số này tăng đáng kể so với 47% vào năm 2020, những ngày đầu xuất hiện dịch bệnh. Cũng theo khảo sát, 13% số người được hỏi có ý định tự tử và 3% từng cố gắng kết liễu đời mình.
Bác sĩ tâm thần Teddy Hidayat, người sáng lập Ruang Empati, cho rằng vấn đề đã lớn đến mức đáng quan tâm. Ông nhấn mạnh tin tức về việc sinh viên tự tử ngày càng trở nên phổ biến kể từ khi đại dịch bắt đầu.
Vào tháng 10, một sinh viên ở Palembang, Nam Sumatra, nhảy từ tầng ba một trung tâm mua sắm. Ba tuần sau, một sinh viên ở Yogyakarta được tìm thấy đã chết trong ký túc xá sau khi uống thuốc diệt chuột. Tháng trước, một sinh viên ở Makassar, Nam Sulawesi, treo cổ tại nhà khi bố mẹ đi vắng. Trong tháng 9, một học sinh ở Malang, Đông Java, cố nhảy cầu trước khi được một cảnh sát cứu.
"8,3 triệu sinh viên cần được quan tâm khẩn cấp vì các em là tương lai của đất nước. Nếu không có sự quan tâm, các em có thể bị các vấn đề sức khỏe tâm thần, không chỉ ảnh hưởng đến bản thân mà còn gây tổn thất cho đất nước", bác sĩ Teddy Hidayat nói.
Đại dịch khiến nhiều người, không chỉ sinh viên, cảm thấy lo lắng kéo dài, dẫn đến thất vọng và trầm cảm. Tuy nhiên, bác sĩ tâm thần Elvine Gunawan cho rằng sinh viên có nhiều nguy cơ hơn.
"Về mặt cảm xúc, các em đang ở độ tuổi đầy sóng gió khi chuyển tiếp từ thiếu niên thành người lớn. Về mặt học tập, các em phải suy nghĩ trừu tượng hơn, học cách độc lập hơn. Trong khi trước đây, các em có sự an ủi, chở che của bố mẹ", cô nói.
Nizam, Tổng giám đốc phụ trách giáo dục đại học của Bộ Giáo dục, thừa nhận sinh viên cảm thấy chán nản trong đại dịch. "Trường học không chỉ là nơi học tập mà còn là nơi giao lưu và tương tác xã hội. Học trực tuyến không thể hỗ trợ điều này", Nizam nói và cho rằng đó là lý do khi đại dịch kéo dài, sinh viên trở nên buồn chán, lo lắng hơn. Nếu không quản lý tốt, tình trạng này sẽ chuyển thành căng thẳng, trầm cảm.
Firman Islami, sinh viên Học viện Công nghệ Bandung, một cố vấn đồng môn về sức khoẻ tâm thần tại trường, cho biết trong đại dịch, nhiều sinh viên liên hệ để chia sẻ những lo lắng và mức độ trầm cảm mà họ chịu đựng.
"Đại dịch đã và đang thách thức mọi người vì phải thay đổi lối sống đột ngột và mạnh mẽ. Có những người không đối phó tốt. Không phải ai cũng xuất thân trong một gia đình hòa thuận và vì thế, ở nhà nhiều quá sẽ xảy ra mâu thuẫn", Firman Islami nói.
Trong khi đó, có những người gặp khó khăn trong học tập vì kết nối Internet kém hoặc không thể học hành yên ổn vì phải chia sẻ phòng ngủ với anh chị em. Một số sinh viên phải làm việc, vì đại dịch ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình họ. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất là sự cô lập.
"Trước đại dịch, mọi người chữa lành dễ dàng bằng cách đi chơi với bạn bè, còn giờ không thể. Một số người cảm thấy không có ai để nói chuyện và không có nơi nào để tìm sự giúp đỡ", anh thông tin.
Firman Islami nói thêm các cố vấn như anh cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận những người cần giúp đỡ do thiếu tương tác trực tiếp. Rất khó để phát hiện những sinh viên cần tư vấn khi họ đang học từ xa.
Maya, một cố vấn khác, cho biết việc không thể giúp đỡ các bạn sinh viên cũng gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của chính cô. "Có những sinh viên từng vui vẻ, nhiệt tình kể từ sau đại dịch đã khép mình lại", Maya nói.
Firman Islami, sinh viên của Học viện Công nghệ Bandung, là điều phối viên tư vấn đồng môn về sức khỏe tâm thần tại trường đại học của anh. Ảnh: CNA
Bác sĩ tâm thần Gunawan thông tin nhiều sinh viên đã không thể tìm kiếm sự giúp đỡ vì sự kỳ thị của xã hội đối với người có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Các sinh viên nhận thức rõ hơn về sức khỏe tâm thần. Họ sẵn sàng lên tiếng và tìm kiếm giúp đỡ. Nhưng họ vẫn cần sự đồng ý của phụ huynh để được điều trị y tế.
Trong khi đó, một số phụ huynh không muốn con điều trị sức khoẻ tâm thần. "Nhiều phụ huynh không thừa nhận con cái họ đang bị trầm cảm bởi không muốn bị coi là cha mẹ tồi. Họ không muốn bệnh tâm thần được liệt kê trong tiền sử bệnh của con vì lo lắng sẽ ảnh hưởng đến cơ hội xin việc", Arlisa Wulandari, giảng viên từ khoa Y của Đại học Ahmad Yani ở Bandung, nói.
Đại diện Bộ Giáo dục, Nizam, cho biết các trường đại học phải thiết lập các dịch vụ tư vấn riêng để hỗ trợ sức khoẻ tinh thần cho sinh viên. Nhìn chung, các trường có dịch vụ tư vấn, có thể dưới hình thức một đơn vị, cơ sở chuyên dụng hoặc giảng viên cố vấn. Nhưng người sáng lập Ruang Empati - Hidayat - cho biết không có tiêu chuẩn thống nhất cho các dịch vụ này, hầu hết hoạt động mà không có sự hiện diện của chuyên gia tâm lý hay bác sĩ tâm thần trong trường. Thậm chí, ở nhiều đại học, chính sinh viên là người khởi xướng các dịch vụ tư vấn hoặc nhóm hỗ trợ của riêng họ.
Theo Bộ Giáo dục, sức khỏe tâm thần của sinh viên xấu đi là lý do chính khiến các đại học mở cửa trở lại vào tháng 10, kết hợp giữa trực tuyến và trực tiếp.
"Đưa sinh viên trở lại trường sẽ không chỉ cho phép phát triển các kỹ năng không thể đạt được thông qua học tập trực tuyến, mà còn tái tạo các tương tác xã hội cần thiết để giữ cho tinh thần và sức khỏe của sinh viên", Nizam nói.
Bộ cũng ban hành một quy định để xóa bỏ bạo lực tình dục, bắt nạt - những nguyên nhân gốc rễ gây ra trầm cảm ở học sinh, sinh viên. Chính phủ đang phát triển một hệ thống giúp các khu học xá ý thức về sức khoẻ và thân thiện với môi trường hơn.
Suryo cho biết anh rất vui vì trường đại học mở cửa trở lại. Cậu quay lại Jakarta vào tháng 9/2020 vì nghĩ rằng điều đó sẽ tốt hơn cho việc học của mình. Trong một năm qua, cậu thuê một căn phòng gần trường học để có thể tận dụng Wifi miễn phí của khuôn viên trường.
Không chỉ Suryo, một số sinh viên cũng quay lại Jakarta dù lúc đó trường học chưa mở cửa. "Chúng tôi không học cùng một khoa, cũng không đến cùng một tỉnh. Nhưng chúng tôi đã trở thành bạn thân vì những vấn đề chung", Suryo nói. Và giờ đây, việc mở cửa trường học trở lại giúp tinh thần và cảm xúc của Suryo càng trở nên tốt hơn.
Dương Tâm (Theo CNA)