Con riêng có được chia thừa kế của mẹ kế, cha dượng không?
Khoản 2 Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình.
Trong khi đó, Bộ Luật dân sự không phân biệt quyền thừa kế của con chung hay con riêng. Do đó, khi có đầy đủ chứng cứ để chứng minh một người là con của người để lại di sản thì người con đó vẫn được pháp luật bảo vệ về quyền hưởng thừa kế.
Về quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế, điều Điều 654 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: "Con riêng và cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này".
Bên cạnh đó, Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thừa kế thế vị: "Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ được quy định tại Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: "Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này".
Như vậy, theo các quy định đã được nêu trong Bộ luật Dân sự 2015, con riêng, nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì vẫn được hưởng thừa kế di sản từ mẹ kế, cha dượng.
Con riêng, nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì vẫn được hưởng thừa kế di sản từ mẹ kế, cha dượng.
Con riêng thuộc hàng thừa kế thứ mấy theo pháp luật?
Người thừa kế theo pháp luật được điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy địnhnhư sau:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Theo quy định, trường hợp con riêng và mẹ kế, cha dượng có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì người con riêng được pháp luật thừa nhận quyền thừa kế đối với di sản thừa kế của mẹ kế, cha dượng. Quyền thừa kế giữa họ tương tự như quyền thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.
Như vậy, con riêng thuộc hàng thừa kế thứ nhất nếu chia di sản thừa kế theo pháp luật.
Quy định phân chia di sản cho con riêng
Việc phân chia di sản theo pháp luật được quy định tại Điều 660 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
- Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
- Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.
Việc phân chia di sản theo phép luật đối với con riêng được thực hiện theo quy định nêu trên.