Ngày 29-5, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 5, Quốc hội nghe báo cáo của Đoàn giám sát về việc huy động, quản lý và sử dụng nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19.
Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn giám sát của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo của Đoàn giám sát. Ảnh: Phạm Thắng
Đoàn giám sát đã trực tiếp giám sát tại 10 tỉnh, thành phố, làm việc với 14 Bộ và một số cơ quan liên quan về các nội dung nêu trên. Qua đó, đã đánh giá việc huy động nguồn lực phòng, chống dịch COVID-19 được thực hiện chủ động, góp phần đáp ứng kịp thời yêu cầu của công tác phòng, chống dịch, mang lại hiệu quả tích cực trong bối cảnh khó khăn, cấp bách.
-
Đẩy nhanh điều tra, xét xử các vụ AIC, Vạn Thịnh Phát, Việt Á, FLC, Tân Hoàng Minh
-
Vụ chuyến bay giải cứu và kit xét nghiệm Việt Á mờ nhạt trong báo cáo giám sát
-
Xử lý dứt điểm đối với các đảng viên vi phạm trong vụ Công ty Việt Á
Tuy nhiên, Đoàn giám sát cũng chỉ ra các tồn tại, hạn chế trong công tác này. Cụ thể, việc quản lý, sử dụng, thanh toán, quyết toán kinh phí phòng, chống dịch từ ngân sách nhà nước trong và sau giai đoạn cao điểm còn chậm trễ, phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc nhưng chưa được giải quyết kịp thời, dứt điểm.
Sau khi kiểm soát được dịch, chưa làm tốt việc giải thể, bàn giao, quản lý tài sản, thanh toán, quyết toán liên quan đến các bệnh viện dã chiến, trạm y tế lưu động, cơ sở thu dung điều trị COVID-19.
Về công tác quản lý, điều phối nguồn lực xã hội có lúc, Đoàn giám sát cho biết có nơi còn hạn chế, lúng túng trong tổ chức, thực hiện, hiệu quả sử dụng chưa cao. Một số tỉnh, thành phố có kế hoạch ứng phó nhưng nguồn lực tại chỗ chưa thể đáp ứng ngay, nhất là giai đoạn dịch bùng phát nhanh, phức tạp, thực hiện giãn cách kéo dài.
Bên cạnh đó, chưa chủ động được việc sản xuất vật tư, trang thiết bị, thuốc, sinh phẩm. Trong thời gian đầu đại dịch COVID-19, việc tiếp cận và độ bao phủ vắc-xin của Việt Nam chậm hơn một số nước trong khu vực và trên thế giới. Theo Đoàn giám sát, chưa quan tâm đúng mức và đầu tư cho nghiên cứu, sản xuất, cung cấp vắc-xin trong nước.
Đoàn giám sát cho biết đã có những sai phạm nghiêm trọng trong huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phòng, chống dịch. Đặc biệt là sai phạm trong công tác nghiên cứu, nghiệm thu, chuyển giao, cấp phép lưu hành, hiệp thương giá, tổ chức sản xuất, mua bán kit xét nghiệm COVID-19 liên quan đến Công ty cổ phần công nghệ Việt Á.
Xét nghiệm COVID-19 trên diện rộng tại Hà Nội thời điểm dịch bùng phát. Ảnh: NLĐO
Cùng với đó là các sai phạm nghiêm trọng trong việc tổ chức các chuyến bay đưa công dân Việt Nam từ nước ngoài về nước cách ly tại cơ sở dân sự, tự nguyện trả phí trong thời gian dịch COVID-19. Do các sai phạm, nhiều cán bộ ở trung ương và địa phương bị xử lý hình sự.
Đánh giá về nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế, Đoàn giám sát cho rằng có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu do dịch COVID-19 diễn biến quá nhanh và phức tạp, chưa có tiền lệ, chưa dự báo được các tình huống phát sinh nên công tác chuẩn bị và thực hiện các giải pháp ứng phó rất khó khăn.
Hệ thống pháp luật hiện hành chưa dự báo hết được các tình huống cấp bách phát sinh trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, chậm được sửa đổi, bổ sung. Một số chính sách ban hành trong bối cảnh cấp bách của dịch bệnh nên chưa đánh giá kỹ tác động, chưa bao quát, chậm cụ thể hóa. Có tình trạng lợi dụng dịch bệnh để trục lợi.
Trách nhiệm chính của những tồn tại, hạn chế nêu trên, theo Đoàn giám sát là thuộc về các tổ chức, cá nhân và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chủ trì tham mưu, xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức thực hiện việc huy động, phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn lực phòng, chống dịch.
Các bộ, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành chịu trách nhiệm chính trong việc chưa kịp thời hướng dẫn hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền xử lý các vướng mắc, khó khăn trong thực hiện chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; thanh toán, quyết toán, bàn giao tài sản, xác lập sở hữu toàn dân đối với các tài sản từ nguồn viện trợ, tài trợ.
Đoàn giám sát cũng nêu rõ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương trong một số trường hợp ban hành văn bản còn chậm, chưa kịp thời xử lý, giải quyết các vướng mắc phát sinh, tháo gỡ khó khăn trong chỉ đạo tổ chức thực hiện.